Tăng trưởng kinh tế với bài học môi trường

|

Tăng trưởng kinh tế với bài học môi trường

Nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển ấn tượng trong vài năm trở lại đây, đặc biệt là mức tăng trưởng dương 2,91% năm 2020 trong khi thế giới phải đối mặt với cuộc suy thoái toàn cầu chưa từng có tiền lệ do đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, đi cùng với sự tăng trưởng, bất cứ nền kinh tế nào trong đó cả Việt Nam đều phải đối mặt với những thách thức về môi trường và khí hậu khiến các nhà hoạch định chính sách phải câ;n đối và đưa ra lựa chọn phù hợp giữa tăng trưởng và môi trường.
 

Câ;u chuyện phát triển thành công của Việt Nam


Trải qua hơn 3 thâ;̣p kỷ, Việt Nam đã xâ;y dựng thành công bài toán phát triển kinh tế - xã hội và được cộng đồng thế giới công nhâ;̣n. Công cuộc đổi mới bắt đầu từ năm 1986 đã thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh chóng, với tốc độ tăng trưởng khá, đưa Việt Nam từ một trong nh??̃ng quốc gia nghèo nhâ;́t thế giới trở thành quốc gia thu nhâ;̣p trung bình với một nền kinh tế thị trường năng động. Quy mô tổng sản phâ;̉m (GDP) tăng 11 lần, từ 31,17 tỷ USD năm 2000 lên đến 343 tỷ USD năm 2020. Từ năm 1990 đến 2020, GDP bình quâ;n đầu người tăng gần 36 lần, từ 98 USD lên 3.521 USD. Thương mại hai chiều của Việt Nam cũng đạt được nh??̃ng thành tựu đáng kể: Nếu năm 2010, Việt Nam vâ;̃n là nước nhâ;̣p siêu lên tới 12,6 tỷ USD, thì 5 năm trở lại đây, cán câ;n thương mại đã đảo chiều và năm 2020 ghi nhâ;̣n kỷ lục khi Việt Nam xuâ;́t siêu đến 19,1 tỷ USD.
 

Ảnh minh họa, nguồn Internet

Nhờ khẳng định được vị thế và uy tín trên trường quốc tế, đặc biệt là môi trường kinh doanh thuâ;̣n lợi, an toàn, nguồn nhâ;n công trẻ dồi dào, chi phí rẻ đã khiến Việt Nam trở thành “thỏi nam châ;m” thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tính đến tháng 5/1990, Việt Nam mới có 213 giâ;́y phép đầu tư trực tiếp nước ngoài được câ;́p với tổng vốn đăng ký gần 1,8 tỷ USD. Song lũy kế đến ngày 20/5/2021, số dự án FDI trên toàn lãnh thổ Việt Nam đã đạt trên 33,6 nghìn dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 396,86 tỷ USD. Trong đó, vốn thực hiện lũy kế các dự án FDI ước đạt 240 tỷ USD, bằng 60,5% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực. Các khoản vay cam kết theo năm tài khóa bao gồm cả các cam kết với Ngâ;n hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD) và Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) đã giảm mạnh trong 4 năm trở lại đây, từ 1.658 triệu USD năm 2017 xuống còn 506 triệu USD năm 2020. Nhiều bước tiến vượt bâ;̣c đã được thực hiện để đem lại sức sống cho khu vực kinh tế tư nhâ;n.

Nh??̃ng thành tựu đạt được trong thời gian qua không chỉ khẳng định sự phát triển năng động mà còn giúp làm gia tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế Việt Nam trước nh??̃ng biến cố lớn. Điển hình là năm 2020 vừa qua, do hội nhâ;̣p kinh tế sâ;u rộng, nền kinh tế Việt Nam đã phải chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 dù đã râ;́t thành công và từng trở thành hình mâ;̃u kiểm soát dịch của thế giới. Mức tăng trưởng GDP 2,91% dù thâ;́p nhâ;́t trong vòng cả thâ;̣p kỷ qua nhưng vâ;̃n giữ Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia tăng trưởng cao nhâ;́t thế giới trong bối cảnh kinh tế toàn cầu bị tàn phá bởi cuộc suy thoái do đại dịch Covid-19 gâ;y ra. Khả năng chống chịu của nền kinh tế Việt Nam được đóng góp từ sự phục hồi nhanh chóng của khu vực kinh tế trong nước, sự v??̃ng vàng của khu vực kinh tế đối ngoại, sự điều tiết kịp thời các chính sách tiền tệ từ nhà nước.

 

Thành công của tăng trưởng được đóng góp từ nguồn vốn tự nhiên và cái giá của môi trường


Nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển và đang phát triển đã giúp các nhà kinh tế học nhâ;̣n ra rằng, nguồn tài nguyên chính là 1 trong 4 nhâ;n tố quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng cùng với nguồn nhâ;n lực, tư bản và công nghệ. Giống như hầu hết các quốc gia thu nhâ;̣p thâ;́p khác, Việt Nam đã sử dụng lợi thế tự nhiên về nguồn đất nông nghiệp, tài nguyên nước, rừng, biển và trữ lượng khoáng sản dồi dào làm nền tảng thúc đẩy tăng trưởng nhanh và mạnh trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Tuy nhiên, mô hình phát triển kinh tế phần lớn dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên đang cho thâ;́y sự thiếu bền v??̃ng theo thời gian. Nhâ;́t là khi quá trình tăng trưởng và công nghiệp hóa nhanh của Việt Nam đã và đang để lại nhiều tác động tiêu cực đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Nguồn vốn tự nhiên của Việt Nam rơi vào tình trạng suy giảm liên tục trong khoảng 2 thâ;̣p kỷ qua, kéo theo đó là các vâ;́n đề về môi trường như: Ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường, mâ;́t an ninh nguồn nước, cạn kiệt tài nguyên…

Worldbank nhâ;̣n định, hầu hết các chỉ tiêu về vốn tự nhiên của Việt Nam đã và đang suy giảm liên tục từ đầu thâ;̣p kỷ 2000 do tình trạng khai thác quá mức nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển. Dù độ che phủ rừng trên cả nước đạt tới 42% với 14,6 triệu ha đất có rừng năm 2019 nhưng gần 20% rừng nguyên sinh đã bị mâ;́t đi từ năm 2001 đến năm 2019, diện tích rừng nguyên sinh chỉ còn lại 0,25%. Nguồn tài nguyên khoáng sản điển hình là than đá đã được khai thác triệt để trong nhiều năm qua khiến các mỏ lộ thiên hầu như không còn, việc khai thác đã phải chuyển qua các hầm mỏ khoan sâ;u xuống lòng đất. Trong vòng 50 năm giai đoạn 1960-2016, sản lượng khai thác thủy sản của Việt Nam đã tăng khoảng 7 lần.

Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế - xã hội cũng kéo theo nhu cầu ngày càng tăng về nguồn năng lượng. Thống kê của Bộ Công thương và Viện Năng lượng (IE), tổng cung câ;́p năng lượng sơ câ;́p (TPES) của Việt Nam năm 2019 là 89,7 nghìn KTOE, tăng 11% so với năm trước. Trong khi đó, giai đoạn 2011-2019, tỷ lệ tăng trưởng chỉ là 6,1%. Theo nhóm sản phâ;̉m, than cốc có tốc độ tăng trưởng gần gâ;́p đôi, 13,2%/năm; năng lượng sinh khối phi thương mại và chênh lệch xuâ;́t khâ;̉u điện có mức tăng trưởng â;m tương ứng -31,4%/ năm và -13,3%/năm. Sự thay đổi đáng kể nhâ;́t là than, năm 2010, than chỉ chiếm 28,1% cơ câ;́u và duy trì mức độ tương đương trong mâ;́y năm kế tiếp. Tuy nhiên kể từ sau năm 2015, tổng cung của loại nhiên liệu này đã tăng lên 44,3% năm 2018 và tăng kỷ lục trên 50% năm 2019. Theo đó, tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng trong giai đoạn trên cũng tăng 4,3%; riêng năm 2018 và 2019 tăng khá cao, lần lượt là 11,86% và 6,7% so với năm trước. Từ một quốc gia xuâ;́t khâ;̉u tịnh năng lượng với tổng mức xuâ;́t khâ;̉u cao hơn nhâ;̣p khâ;̉u 17,3% năm 2010, đến năm 2015, Việt Nam đã trở thành quốc gia nhâ;̣p khâ;̉u tịnh năng lượng với cán câ;n phụ thuộc là 6,02% và tăng vọt lên 39,54% vào năm 2020. Điều này đang ngày càng đe dọa sâ;u sắc đến an ninh năng lượng và sự phát triển bền v??̃ng của kinh tế - xã hội Việt Nam.

Khi nguồn vốn tự nhiên của Việt Nam tiếp tục suy thoái, nhâ;́t là việc sử dụng các nguồn nhiên liệu hóa thạch để sản xuâ;́t năng lượng đáp ứng sự tăng trưởng mạnh mẽ đã khiến cho phát thải tăng nhanh, cùng với các hệ lụy môi trường và khí hâ;̣u. Nhu cầu sử dụng nước ngày một tăng cao, trong khi năng suâ;́t nước vâ;̃n còn ở mức thâ;́p, chỉ đạt 12% so với chuâ;̉n thể giới. Tình trạng khai thác thiếu bền v??̃ng tài nguyên thiên nhiên như cát, thủy sản và gỗ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng dài hạn. Môi trường Việt Nam chưa bao giờ đứng trước nh??̃ng bâ;́t lợi và đe dọa suy thoái lớn đến thế, nhâ;́t là khi Việt Nam đang nằm trong nhóm 6 quốc gia sẽ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hâ;̣u và là một trong 9 quốc gia có ít nhâ;́t 50 triệu người sẽ phải hứng chịu tác động của biến đổi khí hâ;̣u.

Ô nhiễm nguồn nước đang gâ;y ra nh??̃ng hâ;̣u quả nghiêm trọng đối với năng suâ;́t của các ngành quan trọng và với sức khỏe của người dâ;n. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã cho thâ;́y minh chứng điển hình về nh??̃ng tác động đến phát triển kinh tế - xã hội khi tầng suâ;́t biến đổi khí hâ;̣u tăng lên ảnh hưởng đến môi trường với nh??̃ng diễn biến về ô nhiễm nguồn nước, mâ;́t câ;n bằng thổ nhưỡng do lạm dụng thuốc bảo vệ thực vâ;̣t, hạn hán nghiêm trọng đã gâ;y tổn hại cho sản xuâ;́t nông nghiệp và các công trình hạ tầng, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế và đời sống xã hội.

Xu thế tăng cường độ phát thải của Việt Nam được cho là khá rõ rệt trong mâ;́y năm gần đây, nhâ;́t là trong bối cảnh nguồn nhiệt điện than đang được huy động mạnh. Đô thị hóa, tăng trưởng kinh tế và dâ;n số tăng nhanh đang đặt ra nh??̃ng thách thức ngày càng lớn về quản lý châ;́t thải và xử lý ô nhiễm. Lượng rác thải của Việt Nam dự báo tăng gâ;́p đôi trong vòng chưa đầy 15 năm tới. Việt Nam đã trở thành một trong nh??̃ng quốc gia thâ;m dụng năng lượng cao nhâ;́t thế giới với nhu cầu năng lượng tăng 1,5 lần trên 1% tăng trưởng GDP khiến cho châ;́t lượng không khí xâ;́u đi nhanh chóng. Năm 2019, tổng phát thải do hoạt động đốt nhiên liệu là 262 triệu tâ;́n CO2, tăng 17,6% so với năm 2018 và tăng gâ;́p 1,8 lần so với năm 2010. So với các quốc gia và vùng lãnh thổ, chỉ số phát thải trên dâ;n số của Việt Nam khá thâ;́p (2.337 kg CO2/người, còn thế giới là 4.417 kg CO2/người), trong khi phát thải trên quy mô GDP lại khá cao (1,19 kg CO2/USD, còn mức trung bình của thế giới là 0,40 kg CO2/USD). Việt Nam cũng là một trong 10 quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề nhâ;́t bởi ô nhiễm không khí. Đặc biệt là tại các đô thị lớn, vâ;́n đề ô nhiễm không khí đang ngày càng nóng lên theo các nguyên nhâ;n đến từ khí phải phương tiện giao thông, các khu công nghiệp, công trình xâ;y dựng… Thống kê từ IQAir 2020, các thành phố lớn của Việt Nam thuộc dạng ô nhiễm nhâ;́t trên thế giới, điển hình là Hà Nội xếp thứ 3 thế giới sau Ulanbato và Jakarta.

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã cảnh báo, ô nhiễm không khí tại Việt Nam có thể gâ;y thiệt hại tương đương 60 nghìn ca tử vong, trong đó có 40% số ca liên quan đến sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Nguyên nhâ;n gâ;y tử vong hàng đầu đối với bệnh tim, đột quỵ, viêm đường hô hâ;́p, ung thư phổi, tiểu đường… không chỉ làm giảm số ngày làm việc do đau ốm và làm giảm năng suâ;́t lao động, sức khỏe mà còn tạo thêm gánh nặng cho hệ thống y tế đến từ các châ;́t gâ;y ô nhiễm trong nông nghiệp (phâ;n đạm, phâ;n lâ;n, thuốc bảo vệ thực vâ;̣t và các hóa châ;́t khác…), châ;́t gâ;y ô nhiễm trong châ;́t thải công nghiệp (kim loại, a-xen và nhiều châ;́t độc hại khác…). Nh??̃ng tính toán của Worldbank cho thâ;́y, nếu gộp lại toàn bộ nh??̃ng tổn hại về môi trường, thiệt hại ước tính ở mức từ 4 đến 8% GDP mỗi năm, do tác động tiêu cực trực tiếp đến vốn tự nhiên và ngoại ứng gián tiếp đến năng suâ;́t lao động, cũng như châ;́t lượng của cơ sở hạ tầng.

 

Nỗ lực giảm thiểu tác động của tăng trưởng lên môi trường một cách hiệu quả


Hiện nay, các nhà hoạch định chính sách đều nhâ;̣n thức được rằng quá trình tăng trưởng bền v??̃ng của Việt Nam đã, đang ngày càng đòi hỏi phải quan tâ;m hơn nữa đến việc quản lý nguồn tài nguyên quốc gia và gắn chặt với các vâ;́n đề về môi trường. Nhiều chiến lược và kế hoạch để thúc đẩy tăng trưởng xanh, sử dụng bền v??̃ng tài nguyên thiên nhiên và hướng đến nền kinh tế tuần hoàn đang được thực thi. Trong đó, các biện pháp phục hồi “xanh đang được đặt làm trọng tâ;m của các gói kích thích kinh tế. Ngoài nh??̃ng lợi ích rõ rệt về môi trường gắn liền với phục hồi xanh, các chính sách xanh và đầu tư xanh cũng có thể tạo thêm việc làm, thúc đẩy các hoạt động kinh tế và khôi phục dư địa tài khóa. Worldbank đã thực hiện một khảo sát và nhâ;̣n định, quan điểm đầu tư xanh có thế đem lại tác động đến GDP và tăng trưởng việc làm lớn hơn so với đầu tư thâ;m dụng phát thải.

Trên cơ sở đó, Việt Nam được khuyến nghị nên trở thành quốc gia tiên phong trên thế giới về phục hồi xanh. Quyết sách lành mạnh về kinh tế, chú trọng hơn vào môi trường được kỳ vọng sẽ đưa Việt Nam đi theo lộ trình bền vững, hướng đến hoàn thành mục tiêu dài hạn để trở thành nền kinh tế có thu nhâ;̣p cao vào năm 2045. Một số đề xuâ;́t đặt ra nhằm tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế, đồng thời cải thiện các vâ;́n đề về môi trường, khí hâ;̣u cho Việt Nam gồm có: (1) Ưu tiên đầu tư cho năng lượng sạch, đồng thời hỗ trợ có điều kiện cho các doanh nghiệp cắt giảm mạnh lượng khí thải, châ;́t thải, đặc biệt trong các ngành thâ;m dụng các-bon; (2) Điều chỉnh hoạt động định giá các tài nguyên không tái tạo hoặc gâ;y ô nhiễm để khuyến khích nh??̃ng hành động có trách nhiệm như bỏ trợ câ;́p hoặc áp dụng thuế môi trường; (3)Tài trợ, cho vay và ưu đãi thuế cho giao thông và vâ;̣n tải bền vững, xử lý nước, quản lý rác thải, kinh tế tuần hoàn, và nghiên cứu về năng lượng sạch, bao gồm thông qua hệ thống tài chính bằng cách yêu cầu các ngâ;n hàng đầu tư ít hơn vào nhiên liệu hóa thạch và nhiều hơn vào các nỗ lực giảm nhẹ biến đổi khí hâ;̣u và nâ;ng cao khả năng chống chịu; (4). Hỗ trợ tài chính cho các hộ gia đình để nâ;ng cao hiệu suâ;́t sử dụng năng lượng và lắp đặt các thiết bị năng lượng tái tạo; (5) Có các biện pháp hỗ trợ tạo điều kiện khôi phục hệ sinh thái, coi đây là cơ sở hạ tầng xanh thiết yếu bao gồm môi trường sống giàu các-bon và nông nghiệp thâ;n thiện với khí hâ;̣u. (6) Đảm bảo sự phát triển cơ sở hạ tầng mới có câ;n nhắc đến rủi ro thiên tai và khí hâ;̣u để tránh nh??̃ng khu vực có nhiều tai biến, đồng thời đảm bảo tiêu chuâ;̉n thiết kế có thể chịu được tác động của thiên tai nhằm tránh tạo ra nh??̃ng rủi ro mới; (7) Đầu tư cho nh??̃ng biện pháp thích ứng thông qua các khoản đầu tư kết hợp giữa nh??̃ng chiến lược bảo vệ xanh và xám để giảm rủi ro cho con người và tài sản trước nh??̃ng rủi ro thiên tai và biến đổi khí hâ;̣u./.

 
T.S Hà Thị Dáng Hương
Đại học Bách khoa

Trang web giải trí điện tử Jiaduobao